Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Lớp 5 (Bản đẹp)
Sáng kiến là những gì mà mình đúc kết được trong quá trình giảng dạy. Do đó việc áp dụng sáng kiến vào công tác giảng dạy là rất cần thiết. Việc thực hiện sáng kiến nhằm đưa chất lượng giáo dục ngày một đi lên. Thực hiện sáng kiến sẽ giúp người giáo viên có sự tự tin hơn trong mỗi một năm công tác từ những kinh nghiệm mà mình có được trong những năm công tác trước đó.
Năm học . tiếp tục với các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh lồng ghép với các cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” , cuộc vận động :”Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo“, “Phong trào xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực“. Gắn liền với các cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh“, để làm được điều đó mỗi thầy cô phải nỗ lực hết mình trong công tác giảng dạy mới mong gặt hái được những thành tích mà mình mong muốn chính là kết quả học tập của học sinh. Kế hoạch cho giáo dục xứng tầm với các quốc gia khác trên thế giới là lâu dài. Từ đó, ta thấy được giáo dục luôn được quan tâm: “Giáo dục là Quốc sách hàng đầu“. Bác Hồ đã từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người“ . Lợi ích của cái cây chúng ta sẽ thấy nhanh chóng còn lợi ích của trồng người chính là lợi ích của giáo dục thì cả một trăm năm ta mới thấy được đó là cả một thời gian dài đòi hỏi sự kiên trì, cống hiến hết mình của người giáo viên đứng lớp. Mỗi người làm trong ngành giáo dục càng hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Qua đó ta thấy được giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Xong không phải lúc nào những học sinh của mình cũng siêng năng, chăm chỉ, chịu khó học hỏi, tìm tòi những cái mới để cố gắng vươn lên.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG CHÍNH TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5 I / ĐẶT VẤN ĐỀ Sáng kiến là những gì mà mình đúc kết được trong quá trình giảng dạy. Do đó việc áp dụng sáng kiến vào công tác giảng dạy là rất cần thiết. Việc thực hiện sáng kiến nhằm đưa chất lượng giáo dục ngày một đi lên. Thực hiện sáng kiến sẽ giúp người giáo viên có sự tự tin hơn trong mỗi một năm công tác từ những kinh nghiệm mà mình có được trong những năm công tác trước đó. Năm học ........................ tiếp tục với các cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh lồng ghép với các cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” , cuộc vận động :”Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo“, “Phong trào xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực“. Gắn liền với các cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh“, để làm được điều đó mỗi thầy cô phải nỗ lực hết mình trong công tác giảng dạy mới mong gặt hái được những thành tích mà mình mong muốn chính là kết quả học tập của học sinh. Kế hoạch cho giáo dục xứng tầm với các quốc gia khác trên thế giới là lâu dài. Từ đó, ta thấy được giáo dục luôn được quan tâm: “Giáo dục là Quốc sách hàng đầu“. Bác Hồ đã từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người“ . Lợi ích của cái cây chúng ta sẽ thấy nhanh chóng còn lợi ích của trồng người chính là lợi ích của giáo dục thì cả một trăm năm ta mới thấy được đó là cả một thời gian dài đòi hỏi sự kiên trì, cống hiến hết mình của người giáo viên đứng lớp. Mỗi người làm trong ngành giáo dục càng hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Qua đó ta thấy được giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Xong không phải lúc nào những học sinh của mình cũng siêng năng, chăm chỉ, chịu khó học hỏi, tìm tòi những cái mới để cố gắng vươn lên. Căn cứ vào kế hoạch đầu năm học, vào Hội nghị Cán bộ công chức, vào chỉ tiêu đăng kí làm cái đích cho mọi giáo viên đứng lớp tiến tới. Bản thân tôi cũng không ngoại trừ. Để làm được điều đó mỗi giáo viên phải nỗ lực hết mình: “Tất cả vì học sinh thân yêu“. Xong trong dạy học nỗi trăn trở của biết bao thầy cô làm công tác giảng dạy vẫn là làm thế nào để đưa chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu mà mình đã đưa ra trong cả một năm học nói riêng và đáp ứng nhu cầu đi lên của xã hội nói chung thì biện pháp duy nhất là làm cách nào, làm thế nào để không còn đối tượng học sinh yếu trong lớp có như vậy mới đạt được những chỉ tiêu mà chúng ta đã đăng kí. Người ta thường nói: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” Qua câu nói trên ta có thể thấy rằng để hiểu đúng ý nghĩa của câu đòi hỏi người nói, người viết phải nói đúng, viết đúng. Nói, viết sai có thể còn do ngọng, do phương ngữ mà phát âm không chuẩn dẫn đến người nghe, người đọc có thể hiểu sai nghĩa câu nói mà người nói, người viết muốn cho người đối thoại hoặc người đọc biết. Khi viết nếu sai chính tả dẫn đến người đọc sẽ hiểu sai. Do đó phân môn Chính tả trong nhà trường tiểu học vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã biết chính tả là những qui ước của xã hội trong ngôn ngữ, mục đích của nó là làm phương tiện truyền đạt thông tin bằng chữ viết, đảm bảo cho người viết và người đọc hiểu thống nhất nội dung của văn bản. Có thể nói chính tả là sự qui định có tính chất xã hội, nó không cho phép vận dụng qui tắc một cách linh hoạt mang tính sáng tạo cá nhân. Mà đã là qui định của xã hội thì buộc mọi người phải tuân theo. Nhưng trong thực tế giảng dạy nhiều năm nay, tôi nhận thấy học sinh Tiểu học viết sai lỗi chính tả quá nhiều. Kiểm tra vở Chính tả, vở Tập làm văn của học sinh lớp tôi và của các lớp khác trong khối, tôi chỉ thấy toàn những nét gạch bằng mực đỏ của giáo viên. Lỗi chính tả và chữ viết của học sinh hiện nay đang là mối lo ngại của các cấp quản lí giáo dục và của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy. Để khắc phục tình trạng học sinh viết sai lỗi chính tả, chúng ta đang cố gắng sử dụng nhiều biện pháp, nhiều hình thức dạy chính tả nhằm giúp học sinh Tiểu học hình thành, phát triển và hoàn thiện kĩ năng viết đúng Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt chuẩn mực theo hướng “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt“, cũng như xây dựng chuẩn ngôn ngữ cho mỗi vùng miền của Tổ quốc. Trong đó nhà trường là môi trường quan trọng bậc nhất đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chuẩn hóa ngôn ngữ và chữ viết. Và môn học đảm nhận trọng trách to lớn này của trường Tiểu học là phân môn Chính tả. Trong thời gian qua đã có nhiều người cho rằng chính tả phải đi đôi với chính âm, nghĩa là giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau, đọc như thế nào thì viết như thế ấy, đọc đúng thì mới viết đúng. Bản thân tôi cũng vậy, mấy năm trước, tôi luôn chú trọng luyện rèn cho học sinh luyện đọc đúng, luyện phát âm chuẩn xác để các em viết đúng chính tả. Cách làm này tốn rất nhiều thời gian, công sức nhưng hiệu quả đạt được vẫn không như mong muốn. Mặt khác nó còn làm cho giờ học nặng nề, học sinh căng thẳng và mệt mỏi. Tôi thừa nhận rằng cách phát âm theo địa phương là nguyên nhân chính dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Nhưng chúng ta không thể rèn cho học sinh Nam Bộ đọc đúng chính âm được. Sau nhiều năm dạy học sinh Tiểu học ở miền Tây Nam Bộ, gần gũi với học sinh với người dân, tôi đã có nhiều hiểu biết về văn hóa, về ngôn ngữ và thói quen của người dân nơi đây. Vì vậy, tôi hiểu rằng dạy chính tả cho học sinh tiểu học ở Nam Bộ mà dựa vào cách phát âm chuẩn xác để viết đúng chính tả là điều không thể. Bởi vì học sinh ở đây được sinh ra và lớn lên trong bầu không khí của phương ngữ Nam Bộ, giọng nói, cách phát âm của các em đã trở thành thói quen. Mặt khác, mỗi một vùng miền của Tổ quốc đều có một chuẩn phát âm riêng biệt tồn tại hàng bao thế kỉ và đã trở thành đặc trưng ngôn ngữ của vùng miền ấy. Cách phát âm theo phương ngữ cụ thể không được xem là lỗi phát âm. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên Tiểu học là phải giúp các em hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, làm sao để các em có thể phát âm theo phương ngữ nhưng vẫn viết đúng chính tả. Với cách làm này, chúng ta mới có thể vừa giúp học sinh học tập tốt phân môn chính tả vừa giúp các em bảo tồn được tiếng nói của địa phương vốn đã được gìn giữ và coi trọng từ bao đời nay. Là một giáo viên dạy lớp 5 nhiều năm liền, tôi luôn chú trọng và quan tâm rèn cho học sinh viết đúng chính tả. Thấy các em viết sai lỗi chính tả nhiều, tôi rất buồn lòng. Đặc biệt là khi chấm bài tập làm văn của các em thì thật là khổ sở. Các em viết thì không dài nhưng để đọc và sửa lỗi cho các em thì thật là vất vả. Chất lượng học tập, tỉ lệ các em lên lớp cao hay thấp phần lớn là dựa vào việc viết đúng chính tả. Có viết đúng chính tả thì các em mới học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Việc dạy học sinh viết đúng chính tả là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều yếu tố, nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức dạy học. Nhưng việc gì càng khó khăn thì nó lại càng quan trọng. Mà đã là quan trọng thì chúng ta lại càng phải làm và quyết tâm làm bằng được. Cũng vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài Sáng kiến là: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5. Mong rằng những biện pháp mà tôi đã làm và đã thành công sẽ được nhiều thầy cô biết đến và cùng chia sẻ. II/ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Muốn đề ra biện pháp thực hiện, trước hết ta phải tìm ra các nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả. Theo tôi, học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều là do 5 nguyên nhân chính sau đây: 1. Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong SGK hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. Có những giáo viên đã sửa nhiều lần nhưng nhiều em vẫn viết sai. 2. Học sinh đọc còn yếu, nhiều tiếng phải dừng lại đánh vần, tốc độ đọc chỉ đạt 70 đến 80 tiếng / phút. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế. 3. Học sinh không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch, 4. Học sinh không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh. 5. Hiện nay, với sự phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa và xã hội; việc nghe, nói, đọc xem của học sinh thì rất nhiều nhưng viết thì ngày càng giảm. Học sinh chịu sự tác động của kênh hình trong học tập nhiều hơn kênh chữ và việc lạm dụng các vở bài tập, các câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra, trong thi cử làm cho học sinh rất ít có cơ hội được viết, được rèn chính tả. Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây: * Phát huy tính có ý thức trong dạy chính tả. * Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả. * Vận dụng qui tắc dạy chính tả theo khu vực. * Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi. * Tuyên dương khen thưởng kịp thời những học sinh có nhiều tiến bộ trong học tập. 1) Phát huy tính có ý thức trong học chính tả Trong năm học ........................, ở tuần đầu nhận lớp, ngoài việc củng cố nền nếp lớp học, sinh hoạt nội qui của trường, của lớp; tôi cho các em chép chính tả bài “ Quyết định độc đáo “ (Bài tập luyện từ và câu tuần 17 trang 171): Quyết định độc đáo Cách đây không lâu, lãnh đạo Hội đồng thành phố Nót- tinh- ghêm ở nước Anh đã quyết định phạt tiền các công chức nói hoặc viết tiếng Anh không đúng chuẩn. Theo quyết định này, mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt 1 bảng. Ông Chủ tịch Hội đồng thành phố tuyên bố sẽ không kí bất cứ văn bản nào có lỗi ngữ pháp và chính tả. Đây là một biện pháp mạnh nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh. Theo báo Công an nhân dân Sau khi học sinh viết xong, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung đoạn văn bằng các câu hỏi sau đây: +Vì sao những công chức nước Anh lại bị phạt tiền? + Mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt bao nhiêu ? + Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh, Ông Chủ tịch hội đồng thành phố đã dùng biện pháp gì? + Vì sao viết sai lỗi chính tả lại bị phạt như vậy? + Muốn viết đúng chính tả thì các em phải làm sao? Từ việc tìm hiểu bài văn này, tôi làm cho các em hiểu rằng ở đất nước nào cũng vậy, việc viết sai lỗi chính tả sẽ làm cho người đọc, người nghe không hiểu đúng những gì mình đã viết, thậm chí còn làm cho người đọc cảm giác khó chịu và xem thường người viết. Có viết đúng chính tả thì mới học tốt môn Tiếng việt và mới học tốt các môn học khác. Nếu như các em viết sai lỗi chính tả nhiều thì sẽ bị điểm kém môn Tiếng Việt. Và cuối năm sẽ bị thi lại, thậm chí sẽ phải ở lại lớp.Việc rèn luyện kĩ năng viết chính tả không phải là một việc làm dễ dàng nhưng chỉ cần các em chú ý khi đọc, khi viết, có ý thức viết đúng chính tả và làm theo hướng dẫn của cô thì nhất định các em sẽ thành công. Sau đó, tôi cho các em xem một số cuốn tập chính tả tiêu biểu (chữ viết đẹp, trình bày sạch sẽ, ít sai lỗi chính tả) của học sinh năm trước để tác động vào ý thức của học sinh. 2) Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả Như chúng ta đã biết: đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh đọc còn chậm và sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả.Vì đọc chưa thông nên khi viết chính tả các em thường mắc các lỗi do không nắm vững chính tự và cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Vì vậy, đối với những học sinh này, trước hết tôi phải chú trọng khâu luyện đọc cho các em. Đầu năm học, lớp tôi có 4 em đọc có tiếng, từ còn đánh vần, đọc sai nhiều, đọc còn lặp lại tiếng vừa đọc đó là các em: - Nguyễn Thị Cẩm Duy - Huỳnh Văn Thọ - Lê Thị Trinh - Trần Văn Toàn . Hàng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách: - Gọi các em đọc bài nhiều lần không chỉ ở phân môn tập đọc mà cả ở các môn học khác, kiên trì sửa lỗi cho từng em. - Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi trong 15 phút đầu giờ (2 lần/tuần). - Phân công học sinh giỏi đọc bài cùng các em khi luyện đọc trong nhóm. - Giao bài cho các em luyện đọc và viết bài ở nhà; ngày sau, tôi kiểm tra và nhận xét. - Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi nhớ - viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc. 3) Dạy chính tả theo khu vực Như tôi đã trình bày ở phần đầu, cách phát âm theo phương ngữ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết đúng chính tả của học sinh Tiểu học. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều. Nhưng chúng ta không thể bắt buộc, không thể luyện cho các em đọc đúng chính âm được. Chúng ta chỉ có thể khắc phục lỗi chính tả cho học sinh ở mỗi vùng miền khác nhau bằng cách Dạy chính tả theo khu vực. Nghĩa là, chúng ta phải xác định đươc” trọng điểm chính tả” cần dạy cho học sinh, nội dung về giảng dạy chính tả phải sát hợp với tình hình thức tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở địa phương đó. Hiện nay, SGK Tiếng Việt đã có những bài tập chính tả cho giáo viên lựa chọn hoặc giáo viên có thể tự soạn nội dung bài tập sao cho phù hợp với học sinh thuộc vùng miền mình đang dạy. Đó là điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhưng cũng là những khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo, sự đầu tư nhiều cho bài dạy ở mỗi giáo viên. Để dạy chính tả theo khu vực, tôi tiến hành như sau: a)Điều tra, phát hiện và tổng hợp những lỗi chính tả cơ bản của học sinh *Lỗi mà đa số học sinh lớp tôi mắc phải chủ yếu là lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ. Cụ thể: - Lẫn lộn các phụ âm đầu (v/d/gi; r/g; x/s; tr/ch; ng/ngh). - Lẫn lộn 2 âm chính (o/ô; ă/â). - Lẫn lộn các vần (iu/iêu; in/ inh; ui/ uôi; un/uôn; êu/iêu; in/iên; it/ich). - Lẫn lộn các âm cuối ( n/ng; t/c; i/y; o/u). - Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã. * Ngoài các lỗi phổ biến trên, một số học sinh lớp tôi còn mắc một số lỗi riêng biệt (lỗi chính tả do không nắm vững chính tự và cấu trúc âm tiết Tiếng Việt). Cụ thể: - Em Nguyễn Thị Bích Nhành thường xuyên lẫn lộn 2 âm m và n. Ví dụ: chăm sóc thì viết thành chăn sóc; - Em Hà Thanh Thảo lẫn lộn thanh sắc và thanh huyền. - Em Trần Tuyết Nghi lại viết âm cuối nh thành ng. Ví dụ: thành công thì viết là thàng công, củng cố viết thành củnh cố, Căn cứ vào kết quả điều tra, tôi tiến hành lập bảng tổng hợp sau đây và phát đến từng học sinh. BẢNG TỔNG HỢP MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG MẮC PHẢI Các lỗi chính tả Ví dụ Viết đúng Viết sai 1.Lẫn lộn âm đầu v/d/gi r/g; x/s; - tr/ch - c/k - vẻ vang, gia đình - gọn gàng, cá rô - hoa sen, màu xanh - cây tre, trân trọng - con kiến, kêu gọi, - dẻ dang, da đình - rọn ràng, cá gô - hoa xen, màu sanh - cây che, chân chọng - con ciến, cêu gọi 2. Lẫn lộn 2 âm chính - o/ô - ă / â - sóng biển, cuộc sống - đắp bờ, cái cặp, - sống biển, cuộc sóng - đấp bờ, cái cập 3 Lẫn lộn các vần: - iu/ iêu - in/ inh - in/ iên - ui/ uôi - êu/ iêu - dịu dàng, kì diệu - niềm tin, trắng tinh - quả chín, đàn kiến - mặt mũi, cuối cùng - đều đặn, kêu gọi, - diệu dàng, kì dịu - niềm tinh, trắng tin - quả chính, đàn kín - mặt muỗi, cúi cùng - điều đặn, kiêu gọi 4. Lẫn lộn các âm cuối: - n/ng - t/c - y/ i - u/o - buôn làng, mong muốn - đôi mắt, ăn mặc - may vá, ngày đêm - màu xanh, trước sau -buông làng, mong muống - đôi mắc, ăn mặt - mai vá, ngài đêm - mào xanh, trước sao 5. Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã - vĩ đại/ vỉ thuốc, mãnh liệt/ mảnh vải, nỗi buồn/ nổi trôi, cái mũi/ mủi lòng, - vỉ đại, vĩ thuốc, mảnh liệt, mãnh vải,nổi buồn, nỗi trôi, cái mủi, mũi lòng, 6. Lỗi riêng biệt Ở hàng ngang thứ sáu, em nào mắc lỗi, tôi mới ghi vào. Mặt sau của bảng tổng hợp này, tôi lập bảng theo dõi việc sửa lỗi của học sinh trong nửa học kì I (một năm 4 lần). BẢNG THEO DÕI VIỆC SỬA LỖI Số TT Tên bài chính tả Tổng số lỗi Các lỗi cụ thể Sửa lỗi 1 Việt Nam thân yêu .. .. . .. .. 2 Lương Ngọc Quyến . . .. 3 Thư gửi các học sinh . . .. . 4 Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ . . . . .. ... . 5 Một chuyên gia máy xúc . . . . . .. 6 Ê- mi- li, con .. . .. 7 Dòng kinh quê hương . .. . . .. . .. 8 Kì diệu rừng xanh . .. . .. . 9 Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà . .. .. . .. .. Sau khi trả bài chính tả, tôi hướng dẫn các em cách ghi các lỗi và sửa lại cho đúng (ghi từ chứa tiếng sai để hiểu nghĩa rồi viết lại đúng chính tả), sửa trong vở chính tả, sau đó ghi vào bảng tổng hợp. Mấy tuần đầu, những em viết sai nhiều, tôi nhắc nhở và khuyến khích các em về nhà chép lại bài cho đẹp và đúng chính tả. Hết nửa kì, tôi thu bảng tổng hợp và vở chính tả của học sinh để kiểm tra - đánh giá, chọn ra 5 học sinh tiến bộ nhất để khen thưởng. Nhờ có bảng tổng hợp này, các em có ý thức hơn trong việc rèn luyện chữ viết, thi đua viết đúng chính tả. b) Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả Tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa. Học sinh lớp tôi viết sai chính tả, một phần lớn là do các em không nắm được nghĩa của từ. Vì thế, khi dạy chính tả hoặc dạy các phân môn học khác của môn Tiếng Việt, tôi luôn chú ý giúp các em: - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “ dành “ thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả. - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ ( diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe , hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả - Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, tôi yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai. - Trong các tiết Tập đọc, tôi tập cho các em tìm cách ngắt giọng ở những câu dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó. - Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các “ trọng điểm chính tả” để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong SGK, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong SGK nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học. Ví dụ: Bài tập chính tả tuần 16 ( SGK trang 115 ) yêu cầu tìm các từ ngữ chứa các tiếng vàng- dàng; vào-dào, vỗ- dỗ. Thay vì cho các em tìm từ chứa các tiếng đã cho, tôi cho sẵn các từ và yêu cầu các em tìm các từ viết sai chính tả, rồi sửa lại cho đúng. Chẳng hạn: Tìm các từ viết sai chính tả trong bảng dưới đây vàng - dàng vào - dào vỗ - dỗ - màu vàng - dàng bạc - dội dàng - dễ dàng - dềnh dàng - ra dào - vào học - dồi dào - dạt dào - dào lớp - dỗ tay - vỗ về - sóng dỗ - dỗ dành - dạy dỗ Đối với những bài tập dạng này, tôi thường tổ chức cho các em thi đua ‘ Tìm đúng, tìm nhanh “ trong nhóm. Trong cùng một thời gian, nhóm nào tìm được nhiều và đúng là thắng cuộc. c) Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 5, các em vẫn thường xuyên được ôn lại. Nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận đúng các qui tắc chính tả không phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống, tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số “mẹo” chính tả ở mức độ đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 3 mặt của một tờ giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc. MỘT SỐ QUI TẮC CHÍNH TẢ Số TT Các qui tắc chính tả Cách viết Ví dụ 1 Qui tắc ghi phụ âm đầu a) Qui tắc viết k/ c/ q b) Qui tắc viết g / gh và ng / ngh -Trước i, e, ê, được viết là k, Trước âm đệm u được viết là q. - Trước i, e, ê được viết là gh hay ngh. Viết là g hay ng trong các trường hợp còn lại. - kể chuyện, kiên cường, - quyển sách, quyên góp - ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ 2 Qui tắc ghi âm i , y - Viết i sau phụ âm đầu - Viết y sau âm đệm - Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt ; viết là y đối với từ gốc Hán. - niềm tin, tiên tiến - truyện, chuyển, tuyết - âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới, y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược, 3 Qui tắc ghi dấu thanh các tiếng có nguyên âm đôi - Có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. - Không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi. - mượn , trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi - múa, mía, lửa, cứa, đĩa, chĩa, 4 Qui tắc viết tên riêng Việt Nam a) Tên người và tên địa danh Việt nam b) Tên các cơ quan , tổ chức, danh hiệu, -Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó. - Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. - Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền, - Trường Tiểu học Tân Quý, Nhà Xuất bản Giáo dục,.. 5 Qui tắc viết tên riêng nước ngoài: a) Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt. b) Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt. - Viết hoa theo qui tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam. - Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng. - Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, - Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê, MỘT SỐ MẸO CHÍNH TẢ DỄ NHỚ 1. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy: - Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền- ngã- nặng hoặc không- sắc- hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: Chị Huyền mang nặng, ngã đau Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành. 2. Mẹo “ Mình nên nhớ viết là dấu ngã” : - với m (mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, con muỗi, - Với n (nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm, - Với nh (nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,.. - Với v (viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, vũ trụ, - Với d (dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc, - Với ng (ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ, 3. Mẹo nhóm nghĩa tr- ch: - Mẹo trường từ vựng: Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng, ; Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chạn, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng). - Mẹo kết hợp âm đệm: Tr không bao giờ đi với các vần -oa, -oă, -oe, -uê. Chỉ có Ch là có khả năng đi với các vần này.VD: choáng váng, loắt choắt, chạch chọe, chuệch choạng, . - Mẹo láy âm: Ch láy âm với các phụ âm đững trước hoặc đứng sau, Tr không láy âm với các phụ âm khác, trừ 4 ngoại lệ, đều láy với L: Trọc lóc, trụi lủi, trót lọt, trẹt lét. VD: chơi bời, cheo leo, chàng ràng, chờn vờn, chềnh ềnh, . - Mẹo thanh đệm trong từ Hán-Việt: Những từ Hán-Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với Tr chứ không đi với Ch. VD: trịnh trọng, trạm xá, trục lợi, từ trường, lập trường, trừng trị, . - Mẹo đồng nghĩa “tranh-giành”: Trong tiếng Việt có nhiều cặp từ đồng nghĩa mà một được viết với Tr, một được viết với Gi, VD: tranh-giành, trai-giai, trở mặt-giở mặt, trồng-giồng, nhà tranh-nhà gianh, . 4. Mẹo nhóm nghĩa s- x: - Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong, - Các động từ, tính từ thường viết là x: xem, xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh, - Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s: + Chỉ người: sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư, + Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, ... + Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải, + Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét, Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau: Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã, đổi xẻng và xô ở xưởng đem về cho trạm xá chữa xương. - Mẹo kết hợp âm đệm: S không kết hợp với a vần oa, oă, oe, uê (ngoa ngoăt kheo quê), do vậy chỉ có thể viết X với 4 vần này. VD xoa tay, xoắn lại, xèo tay, xuề xòa, . Ngoại lệ: soát trong rà soát, kiểm soát , soạn trong soạn bài, tòa soạn , soán trong soán đoạt và những trường hợp do điệp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng. - Mẹo láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các phụ âm đầu khác, còn S hầu không có khả năng này. VD: bờm xờm, xô bồ, búa xua, lòa xòa, xấc lấc, xích míc, xo ro, Ngoài lệ: cục súc, sáng láng, loạt soạt. 5. Mẹo viết d, r, gi: - Mẹo đồng nghĩa: Ở một số trường hợp, R đồng nghĩa với L và S do quan hệ về nguồn gốc. Đây là cơ sở để viết đúng R trong những trường hợp như vậy. + R đồng nghĩa cùng gốc với L: lấp-rấp; lóc-róc; lỗ-rỗ; ngày mười lăm-ngày rằm; ; + R đồng nghĩa cùng gốc với S: siết-riết; sắp-rắp; sáng-rạng; sẻo-rẻo; + Tương ứng R/D: ríu mắt - díu mắt; rờn rợn - dờn dợn; rõi theo - dõi theo; . + Tương ứng R/GI: rập khuôn - giập khuôn; chế riễu - chế giieeux; ràn rụa - giàn giụa; . - Mẹo về âm đệm: R và GI không kết hợp với âm đệm tức là không đứng trước các bắt đầu bằng oa, oă, uâ, oe, uê, uy. VD: dọa nạt, hậu duệ, duy trì, vô duyên, . Ngoại lệ: roa trong cu-roa - một từ phiên âm tiếng Pháp. - Mẹo láy âm “co ro - bịn rịn”: chỉ có R láy âm với B và C (K), còn D và GI thì không. VD: bịn rịn, bứt rứt, bã rã, bêu rêu, cập rập, cọm rọm, cà rà, kèo rèo, . - Mẹo “run rấy - rừng rực” : những từ láy điệp âm đầu với R có đặc điểm ngữ nghĩa khác hẳn với những từ láy điệp âm đầu với GI hay D. + Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động, gợi tả âm thanh: rào rào, răng rác, róc rách, réo rắt, reng rẻng, rì rầm, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau: run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, . + Những từ láy điệp âm đầu R chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói: rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ, . - Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, - Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: + gia (tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia, + gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,.. + da (lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, + ra (sự di chuyển): ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi, Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc “ Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả, Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách “nhớ từng từ một” (cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một. Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết thanh ngã chứ không viết thanh hỏi, từ để chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, từ kể chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, 4) Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. * Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả). Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều về nhà sửa lỗi trong vở và trong bảng tổng hợp. * Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm nhỏ bằn
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung.doc